Thứ Ba, 19 tháng 8, 2014

BẢY TAY SÚNG OAI HÙNG

Một vụ cướp súng công an đào thoát thật ly kỳ xảy ra
tại trại tù A.20 Xuân Phước.


QP. Võ Văn Sáu
***
     Trại tù A.20 Xuân Phước của Việt Cộng toạ lạc tại một địa điểm cách ga xe lửa Lahaye khoảng 15 cây số thuộc tỉnh Phú Yên (Trung phần). Đây chính là nơi mà trong thời chiến tranh trước 1975 VC dùng làm Mật Khu an dưỡng cho các cán binh CS của chúng. Sau khi chiếm được miềnNam tháng Tư 1975, chúng biến nơi này thành trại tù lớn, chia làm hai khu, Khu A và Khu B. Và mỗi Khu còn chia ra thành nhiều Phân trại. Phân trại E giam giữ các anh em Sĩ quan QLVNCH. Bọn VC đã đưa toàn bộ số đàn ông di tản qua Mỹ trở về từ con tàu Việt Nam Thương Tín nhốt tại đây, rồi sau biến các tù nhân này thành những phu hồ để xây dựng những ngôi nhà ở và nhà giam bằng xi măng cốt sắt. Đồng thời chúng áp dụng một quy chế đối xử với tù nhân vô cùng khắt khe. Bọn cai tù tuyên bố rằng, nơi đây chúng sẽ "biến sắt thành bùn", bất cứ tù nhân nào dù ngoan cố tới đâu cũng phải bị khuất phục. Nhưng ngược lại, chúng đã luyện cho các tù nhân trở thành Gang Thép !
      Các anh em tù gọi đây là "Trại Kiên Giam".
      Ở đây chúng tôi không nói về các sinh hoạt của trại tù, vì đã có 2 quyển sách nói về Trại tù A.20 Xuân Phước rồi. Một, là quyển "Trại Kiên Giam" của nhà văn Nguyễn Chí Thiệp, cựu sinh viên quốc gia hành chánh, hiện ở Texas. Và hai, là quyển "Cuối Tầng Địa Ngục" của nhà văn Đỗ Văn Phúc, cựu đại úy CTCT, hiện cũng ở Texas.
      Hôm nay chúng tôi chỉ xin tường thuật lại vụ cướp súng công an rồi đào thoát của 7 cựu Sĩ quan QLVNCH, đó là :
     1.- Đại úy Đặng Ly Thông  (Trường Anh Ngữ QĐ)
     2.- Tr/úy  Nguyễn Duy Đức  (Biệt Động Quân)
     3.- Tr/úy  Nguyễn Ngọc Bửu  (TQLC Khoá 25VBĐL)
     4.- Tr/úy  Nguyễn Lưu Úy  (Phi công F5E)
     5.- Tr/uý  Nguyễn Hồng Quân (Phóng viên Chiêu Hồi)
     6.- Tr/uý  Nguyễn Văn Minh (TQLC)
     7.- Đại úy Lê Thái Chân (Pháo binh Dù)
     Tại trại A-20 Xuân Phước, Phân trại A, các tù nhân được chia ra thành từng đội, mỗi đội có khoảng trên dưới 30 người. Hàng ngày các đội được hướng dẫn đi ra ngoài trại để làm việc lao động nặng nhọc như đào ao nuôi cá, cuốc đất trồng hoa màu, v.v... Mỗi lần dẫn tù từ trại đi "lao động" luôn luôn có 1 quản giáo mang súng ngắn và 2 vệ binh mang súng dài đi kèm.
     Nhưng vào ngày 13 tháng 11 năm 1980, đội của các anh em 7 Sĩ quan trên chỉ có một quản giáo và 1 vệ binh đi kèm. Vì đã có chuẩn bị từ trước, cho nên thấy đây là cơ hội tốt. Bởi vậy, thừa lúc giải lao, chỉ có một tên vệ binh đứng gần, một anh bèn dùng xẻng đập vào đầu tên vệ binh lăn ra bất tỉnh. Các anh em cướp súng rồi hè nhau tẩu thoát về phía chân núi. Tên quản giáo ở đàng xa thấy động định chạy lại... thì anh em liền nổ một phát súng chỉ thiên, tên quản giáo hoảng sợ quay đầu hướng về trại chạy thục mạng.
      Thực ra, trong toán tổ chức trốn trại lần này chỉ có 6 anh em thôi, không có Đại úy Đặng Ly Thông. Nhưng khi anh em bỏ chạy thì Đại úy Thông chạy theo luôn miệng la ơi ới... đợi tui với ! Những anh em trong đội còn lại thì ngồi yên tại chỗ. Mấy tiếng đồng hồ sau, trong trại mới báo động, bọn công an trong trại kéo ra mở cuộc truy lùng có dẫn theo cả chó, đồng thời đưa những anh em trong đội còn lại trở về trại.
      Hơn tuần lễ trôi qua, anh em trong trại rất vui mừng tưởng đâu vụ trốn trại trên đã thành công. Nào hay mấy tuần sau có điện từ Tuy Hoà gọi trại cho người tới nhận diện 6 cái xác chết của tù nhân trốn trại. Một anh tù hình sự đi theo đám công an có nhiệm vụ chôn cất đã kể lại rằng, một toán du kích người Thượng phát hiện có 6 người, một người đang ngồi trên bờ, bên cạnh để 2 khẩu súng, một CKC và một AK, còn 5 người thì đang tắm dưới suối. Toán Du kích này đoán ngay là tù trốn từ trại A.20 Xuân Phước vì chúng đã được báo động từ vụ cướp súng tên du kích người Thượng mấy hôm trước. Lập tức chúng liền nổ súng bất ngờ vào anh đang ngồi giữ súng, và bắn vào các anh đang tắm dưới suối làm không ai kịp trở tay.
     Toán công an trại tới nhận xác, nhận diện từng người, thấy Đại úy Lê Thái Chân lọt sổ. Nhưng một thời gian sau Đại úy Lê Thái Chân cũng bị bắt trở lại và bị kêu án 18 năm tù. Sau đó Chân được thả ra năm 1995 và qua Mỹ năm 1999, định cư tại thành phố Utica, tiểu bang New York, là một nơi hẻo lánh ít có người Việt.
     Khi hay tin Lê Thái Chân tới Mỹ, chúng tôi liền liên lạc với anh ngay. Chân bèn kể vắn tắt câu chuyện như sau :
     Sau khi chạy được vào chân núi, anh em không dám đi đường lộ mà phải vượt đường rừng, men gần các buôn Thượng để kiếm thực phẩm như đào trộm khoai để mưu sinh. Dọc đường anh em cướp được thêm một khẩu AK của một tên du kích người Thượng tên Ma Lan. Chính vì nhân đạo không giết tên Ma Lan mà lộ trình đào tẩu của anh em bị lộ, bọn du kích bám sát.
     Toán của anh đi hơn 1 tuần lễ thì giáp với biên giới Cam Bốt. Có đêm anh em đứng trên ngọn núi Buôn Mê Thuột nhìn qua phía Cam Bốt thấy lửa đỏ trời và tiếng súng đại bác vang rền. Trong thời gian này quân VC tràn qua Cam Bốt. Vì anh Chân nguyên là Sĩ quan đề-lô pháo binh, anh có nhiệm vụ đi trước thám sát địa hình. Một hôm, anh vừa đi thám sát được một lúc thì bỗng nghe có nhiều loạt súng nhỏ nổ, anh nghĩ rằng có biến động. Anh liền tìm chỗ ẩn núp. Độ tiếng đồng hồ sau, thấy mọi sự yên tỉnh, anh liền thận trọng từng bước quay trở lại chỗ anh em đợi khi nảy… thì không thấy ai cả. Anh bị lạc từ đó không biết chuyện gì đã xẩy ra cho các bạn đồng đội ?
     Cho đến mấy ngày sau, ngày 18-12-1980 anh chạm trán với một toán bộ đội VC, chúng chận hỏi giấy tờ. Anh chối quanh, chúng làm dữ đòi bắn bỏ. Sau anh đành nhận đại là tìm đường vượt biên. Chúng đưa anh về đồn tạm giam. Qua hôm sau chúng điều tra ra anh trốn trại, nên đánh anh một trận suýt chết, rồi giải giao anh trở về trại Xuân Phước. Tới lúc đó, anh mới được anh em đồng tù thuật lại về cái chết của 6 đồng đội. Tất cả 6 cái xác được chôn chung một cái huyệt, san bằng, không để lại chút dấu vết gì !
     Sau khi Chân vắn tắt kể cho nghe câu chuyện, chúng tôi còn muốn biết thêm nhiều chi tiết nữa, nhưng Chân hẹn lại dịp khác. Lần khác gọi lại thì Chân lại bận. Chúng tôi yêu cầu Chân viết ra giấy, hoặc thâu vào băng gởi cho chúng tôi cũng được. Chân đồng ý.
     Một mặt chúng tôi viết bài "Bảy Tay Súng Oai Hùng" này gởi cho Chân xem. Chân có đính chính vài chỗ, nhứt là tên họ và cấp bậc của 6 người bạn. Đồng thời kèm theo mấy dòng :
     - Anh Sáu,
     Chuyện vượt ngục của Em dài dòng và chi tiết nhiều lắm. Thuận tiện Em sẽ thâu băng và nhờ Anh góp ý. OK nhé ! Bây giờ chỉ gởi thêm một ít chi tiết và tùy Anh định liệu.
     Mất liên lạc một thời gian, chúng tôi bắt lại liên lạc và cho Chân xem lại bài viết sau khi đã hoàn chỉnh. Chân cho biết như vậy đã tạm đủ, chúng tôi liền đưa lên các diễn đàn hôm 30-12-2008.
     Và rồi sau đó ít lâu, một bạn đọc ở Pháp có liên lạc cho chúng tôi biết, có một gia đình ở Pháp đã trở về VN mấy lần và lên tận Trại A.20, xin Ban Giám Thị trại giúp đỡ để tìm đến địa điểm chôn cất 6 thi hài của tù nhân quá cố. Nhưng vì thời gian đã quá lâu, những cán bộ công an phụ trách trong thời gian đó không còn ai, lớp giải ngũ, lớp thuyên chuyển đi đơn vị khác. Các thân nhân nầy vẫn không nản chí, họ thuê người dò tìm một thời gian rồi cũng không tìm ra. Như đã nói, 6 người được chôn chung một cái huyệt và san bằng không để lại dấu vết gì, cây cỏ đã mọc phủ mất dấu. Ngay chính anh Chân cũng không thể xác định được vị trí anh em dừng chân lúc đó…
     Chúng tôi có gợi ý với quý vị ấy, trong số 2 tù hình sự phụ trách đào mộ lúc đó có một anh tên là Quý, cựu “Hạ sĩ Nhảy Dù” đóng tại Trại Hoàng Hoa Thám, Tân Sơn Nhứt, Sàigòn. Hạ sĩ Quý, thường gọi là Quý Đen, có cha là lính Pháp gốc Phi Châu, người cao lớn, da đen nhánh và tóc quăn… rất dễ nhận diện. Nếu tìm được Hạ sĩ Quý Đen thì chắc chắn là sẽ tìm ra nơi chôn cất 6 di hài Chiến sĩ QLVNCH.
     Đầu mối để tìm ra Hạ sĩ Quý Đen là các Sĩ Quan, HSQ hoặc binh sĩ Nhảy Dù thuộc đơn vị cuối cùng trại Hoàng Hoa Thám năm 1975… Chúng tôi hy vọng bài viết nầy sẽ được quý vị cựu quân nhân các cấp thuộc trại Hoàng Hoa Thám năm xưa đọc. Nhờ Ơn Trên may ra sẽ có vị biết rõ quê quán và địa chỉ của Hạ sĩ Quý Đen, xin hãy lên tiếng hầu giúp cho gia đình của “Bảy Tay Súng Oai Hùng” tìm ra mộ huyệt các người thân để cải táng…
    Đó chính là một niềm an ủi vô biên cho các Chiến Sĩ quá cố !
      Lynnwood, 15-12-2013
Quang Phục Võ Văn Sáu
 
     Tái bút : Xin quý bạn đọc vui lòng phổ biến thật rộng bài viết nầy hầu giúp cho thân nhân của 6 Anh Em Chiến sĩ VNCH đã hy sinh… tìm ra Hạ sĩ Quý Đen. Đa tạ.
    
 
    
 
GÓP GIÓ DẠY DỖ VẸM TRƯƠNG KHÔI
      Thưa Quý vị Quan tâm,
      Chúng tôi lại xin cáo lỗi chư vị lần nũa vì đã không giữ lời hứa “không trả lời” cho 2 con gâu gâu Trương Khôi và Hà Bá. Nhưng chúng cố tình xuyên tạc một cách quá NGU DỐT y chang bọn Vẹm. Không dạy dỗ chúng không được. Ngoài ra có một số chi tiết đặc biệt mà quý vị có thể chưa bao giờ biết trong thời Pháp thuộc về 3 nước Đông Dương.
       Nếu Quý vị cảm thấy phiền lòng thì xin đừng xem. Đa tạ.
       Chúng tôi đưa lên nguyên văn bài số 9 của Trương Khôi, và chỉ điểm những cái NGU của hắn bằng chữ lớnmàu đỏ theotừng đoạn để cho bạn đọc dễ theo dõi:
 
 VĂN SÁU LÀ AI ?Bảo Quốc Kiếm
(Bài 9)
 
Ông Võ Văn Sáu sinh ra và sống tại Cam Bốt thì tấtnhiên nếu có học thì cũng ở Cam Bốt mà thôi. Do đó,ông Võ Văn Sáu không thể nào biết đọc, biết viết chữ Việt vì hồi đó ở Cam Bốt làm gì có trường dạy Việt ngữ. Điều này liên quan đến chuyện năm 1957 ông đã trởthành “Biên Tập Viên” của tờ báo Hải Quân; và em ông sau đó trở thành Trưởng Ty Thông Tin một Quận ởngay Thủ Đô Sài Gòn; nhưng sẽ nói sau.
 
Cái NGU thứ 1 :
     *Ở Cambốt không có trường dạy tiếng Việt thì cha mẹ gởi con cái về Sàigòn hoặc bất cứ trường nào ở trong nước VN để học. Được không ? Thậm chí có thể do cha mẹ dạy, rồi tự học tiếng Việt thêm… không được à ?
     *Võ Văn Sáu không học chữ Việt, chẳng lẽ vào Hải quân VN, Võ Văn Sáu phải xử dụng chữ Miên, và viết bài, ra sách bằng chữ Miên à ? Thế VVS đang trả lời bằng tiếng gì vậy hả vẹm Khôi ?
     *Như ông em Võ Hữu Hưng của tôi đó, nếu học tiếng Miên thì làm sao được bổ nhiệm vào ngạch Thông Tin VNCH, làm Trưởng Phòng Thông Tin Quận I, rồi Quận 8 Sàigòn, chẳng lẽ chú ấy học tiếng Việt từ trong bụng mẹ à ? Mi có thấy cái NGU của mình chưa ?

    Vấn đề khúc mắc ở chỗ là ông sinh tại Cam Bốt,nghĩa là công dân Cam Bốt suốt hai mươi năm; vậy thì về Việt Nam ông phải có người bảo lãnh để xin nhậpquốc tịch là vấn đề không thể không có. Người bảo lãnhcho ông là ai, và chắc chắn phải có một thời gian khálâu mới có thể trở thành công dân Việt Nam và có thểđăng ký làm thủy thủ. Tuyệt nhiên ông không nói gì vềquê hương, làng mạc và thân nhân của ông ở đâu cả;vậy sao tự nhiên có thể đăng ký làm thủy thủ?
 
Cái NGU thứ 2 :
    *Thời Pháp thuộc, 3 nước Đông Dương gộp lại thành Liên bang Đông Dương (Indochine), cả 3 nuớc Việt-Miên-Lào đều xài chung một đồng tiền Đông Dương. Cho tới năm 1948, Pháp tuyên bố trả độc lập cho cả 3 nước. Từ đó mới có đồng tiền riêng cho mỗi quốc gia. Nói trả độc lập, nhưng thực sự người Pháp vẫn hiện diện cho tới giữa năm 1956 mới thực sự rút đi.
    *Vì là một nước Đông Dương, cho nên các công dân nước nầy (như VN) sanh đẻ nơi khác (như Lào, Cambốt, hay ngược lại) vẫn giữ nguyên quốc tịch của mình. Thời đó làm gì có luật sanh đẻ nơi nào đương nhiên là công dân xứ đó như bây giờ. Giấy khai sanh dùng chữ Pháp, hiểu chưa vẹm Khôi?
    *Trong thời kỳ còn Liên bang Đông Dương, công dân 3 nước Việt-Miên-Lào qua lại thoải mái. Nhưng sau khi tách ra, Cambốt áp dụng 2 loại giấy thông hành cho người Việt sanh sống ở Miên: (a) Những ai sanh đẻ ở Cambốt (như VVS) được cấp giấy “Laissez-PasserPermanent” (vĩnh viễn); (b) Còn ai không sinh ra ở Cambốt, tới Cambốt làm ăn thì cấp “Laissez-Passer Provisoire” (tạm thời) còn thời gian tùy trường hợp. Sau nầy họ có thay đổi luật lệ ra sao thì tôi không rõ.
 
    Quê hương ông ở đâu mà ông có thể một mình chạyđến Nha Trang xin làm Thủy thủ được ? Nên nhớ lúc đó còn trong tay người Pháp.
    Sinh ra và lớn lên tại Cam Bốt, không về Việt Nam lầnnào thì làm sao ông biết chỗ này, chỗ kia trên đất nước Việt Nam mà biết tìm ra Nha Trang ? Tại sao chỉ mộtmình ông về nước mà không nghe thấy có một người nào khác trong gia đình?
    Sinh ra và lớn lên tại Cam Bốt thì tất nhiên tiếng nói của ông trở thành “lơ lớ Cáp Duồn”, vậy nếu không quen biết thì ai mà tin ông để bảo lãnh hay giới thiệu vàoHải Quân ?
    Tạm ghi nhận như thế để thấy rằng lúc nào ông VõVăn Sáu chưa giải thích chuyện này thì chính ông tự xácnhận là một cán bộ Việt Minh được đào tạo từ bưng biềnnào đó rồi xâm nhập mà thôi.
    Các điều cần thiết là: Quê hương ông ở đâu ? Ông vềnước ngày nào, được nhập tịch ngày nào, ông đăng ký Hải Quân ngày nào, ông học trường nào mà biết viết, đọc tiếng Việt khi ông ở Cam Bốt suốt hai mươi năm….Chúng ta chờ đợi xem sao.
Cái NGU thứ 3 :
    *Trước khi gia nhập vào Hải Quân VN, Võ Văn Sáu đã về VN quê ở Vũng Tàu chơi một tháng. Và khi ghé qua Sàigòn đọc được tin Hải Quân VN tuyển mộ (áp-phích dán đầy đường Sàigòn). VVS liền tới Phòng Tuyển Mộ Hải Quân ở số 198, Đại lộ Trần Hưng Đạo, Sàigòn (cũng là BTL/HQ), xin một bộ hồ sơ. Liền khi trở về Cambốt VVS xin giấy trích lục khai sanh và bản “tư pháp lý lịch số 3” ở  toà án  Kompong-Cham; giấy xác nhận cư trú, v.v… Sau đó ra bưu điện gởi bảo đảm toàn bộ hồ sơ xin gia nhập Hải quân thẳng về Phòng Tuyển Mộ Hải Quân. Sau đó ít lâu, nơi đây chấp thuận hồ sơ và gởi lịnh triệu tập (Convocation) tới địa chỉ của tôi ở Cambốt. Cầm lịnh triệu tập nầy tôi bay về Sàigòn, vào trình diện Phòng Tuyển Mộ (nằm chung với BTL/HQ). Vì lý do chúng tôi có lịnh Convocation nên nơi đây nhận ngay trong ngày và tức thì chuyển tới tạm trú tại UM.1 (Đơn vị Hải Quân Miền Nam số 1) ở Thị Nghè. Ngày 7-8-1954 VVS lên chiếc LST tên “Orne” của Pháp ra Nhatrang cùng với 3 tân binh sĩ quan, sau nầy là HQ Đại tá Nguyễn Phổ; HQ Đại tá Vũ Trọng Đệ và HQ Trung tá Dương Văn Quí (ông Quí sau nầy là anh rễ của tôi. Ông Quí mất ở San Diego cách đây mấy năm), cùng 2 tân binh khác là Hoàng Nguyệt, và Huỳnh Thăng Long. Ngoài ông anh rể Tr/tá Quí, tôi còn ông anh rể Đại tá Dương Văn Dần, Đặc ủy Giám Sát QK1 & 2. Mới mất hồi năm ngoái tại Seattle.
     Năm 1954 tôi về nước vào Hải quân, cho tới khoảng năm 1958 mẹ chúng tôi, chú Hưng và các anh chị em mới hồi cư về VN. Chú Hưng nhờ có công hợp tác với ông Ngô Trọng Hiếu, Đại sứ VNCH làm cán bộ thông tin hoạt động chống VC trên đất Miên, từng bị Miên bắt bỏ tù, và Toà Đại sứ VN phải can thiệp, nên sau khi hồi cư được chánh quyền VNCH đón tiếp, ban khen và tuyển vào làm Cán bộ Thông tin VNCH…
    Chẳng lẽ chú Hưng cũng như tôi, sanh đẻ ở Miên, nói tiếng Miên, không biết tiếng Việt, viết chữ Việt mà lại được thu nhận làm Cán bộ Thông Tin VNCH à? Sao NGU thế !
     Nên nhớ : Chuẩn Tướng Phan Hoà Hiệp và Bà Jackie Bông đều sanh trưởng ở Cambốt. Thân sinh của 2 vị ấy là BẠN của cha mẹ chúng tôi lúc con nhỏ. Tướng PHH mất rồi, bà Jackie Bông còn đó. Chẳng lẽ 2 vị ấy cũng là người Cambốt, không biết tiếng Việt à ?
     Có NGU thì cũng NGU vừa phải thôi chứ !?

       Tiếp theo, ông Võ Văn Sáu ghi:
“3.- Tân binh Hải Quân tháng 8/1954 tại Trung Tâm Huấn Luyện Hải Quân Nhatrang.
  4.- Từ tháng 8-1954 đến tháng 2-1955 học các khoá:
  -Khoá 8 Sơ đẳng chuyên nghiệp ngành Trọng pháo & Khoá 7 Trung Đẳng Chuyên nghiệp Trọng pháo. (Maistrancier Canonier).
  5.- Tháng 2/55 – 2/1957 Ra trường, xuống Quân vậnhạm HQ-537”.
    Điều này không phải bây giờ ông Sáu mới trả lời tôi, mà ngay từ 22-10-2010 ông đã viết cho Llyod Pham rồi:“Võ Văn Sáu dốt lắm. Không có bằng Tú Tài Toàn Phần Toán cho nên không học Sĩ Quan Hải Quân mà phải họckhoá 7 Maistrancier (hạ sĩ quan) ngành Trọng Pháo. Sốquân 54A700.207. Đã học khoá 19-CB Sĩ Quan Chiến Tranh Chánh Trị Đà Lạt năm 1973. Cấp bậc Thiếu Uý Hải Quân”. 
    Qua các lời minh định của ông Võ Văn Sáu quý vị thấy có gì lạ không ? Không phải lạ, mà là một chuyệnchưa từng có trên đời này. Ông mới xin vào Hải Quân thì ông học “khóa 8 Sơ đẵng chuyên nghiệp ngành trọng pháo”; ông học luôn một hơi “khóa 7 Trung đẵng chuyên nghiệp trọng pháo” trong vòng sáu tháng (8/54-02/55).  Và đã như thế, nghĩa là ông Võ Văn Sáu là Trung Sỹ Hải Quân ngay từ tháng 02/1955 rồi.
    Nhưng quái lạ thay, kế đó ông viết: “5.- Tháng 2/55 – 2/1957 Ra trường, xuống Quân vận hạm HQ-537”. Điềunày chứng tỏ ông Võ Văn Sáu đã học  từ tháng 8-1954đến tháng 02-1957, tức là ĐÚNG BA NĂM RƯỠI tại trường Hải Quân
Nha Trang.
 Vậy thì ông phải ra trường với cấp bậc “VÔTHƯỢNG HẢI QUÂN ĐẠI NGUYÊN SOÁI”, chứ saoTrung Sỹ ?
    Nói về “quân vận hạm HQ537” là một điều hoàn toànkhông đúng. Tôi đã tìm hồ sơ Hải Quân VNCH thì thấyrằng cho đến năm 1974 chúng ta có 17 loại “hạm” tổngsố là Chín Mươi Tám (98). Trong số này không có chiếc“hạm” HQ537. Tôi
lại truy tìm tiếp mới thấy chúng ta có 34 loại “Đỉnh” tổng số là Một Ngàn Hai Trăm Bảy Mươi Ba Đỉnh (1,273). Trong số này có “Quân Vận Đỉnh HQ537”, là một trong Mười Sáu chiếc mang số từ 533 đến 548. Người ngoài nên biết là hai chữ HẠM và  ĐỈNH khác nhau rất xa.
    Điều không đúng khác là Trường Hải Quân Nha Trang chỉ được bàn giao ngày 07-11-1955; và Khóa 7 SVSQHQ nhập học đầu năm 1956 và không làm lễ mãn khoá, nhưng được lệnh mang long Thiếu úy ngay tại Sài Gòn vào tháng 6.1957. Vậy thì, Hải Quân Thiếu Úy chỉ học Một Năm Rưỡi, nhưng Trung Sỹ sao học đến Ba Năm Rưỡi ?
Cái NGU thứ 4 :
     *Trong thời gian VVS học ở Nhatrang do các huấn luyện Hải quân Pháp đào tạo. Theo các bạn các khoá sau kể lại, tới giữa 1955 mới có huấn luyện viên tiếng Việt dạy kèm. (Tôi không biết rõ lúc nào thì Pháp hoàn toàn rút khỏi TTHL/HQ Nhatrang). Vào thời gian đó thì các học viên đòi hỏi phải có trình độ căn bản Pháp ngữ mới theo học được --đặc biệt là phải đậu cao từ hạng 1 tới 3, hoặc 4… mới được tuyển chọn đưa lên học khoá Maistrancier. Vào thời kỳ tôi học, có 2 khoá Sơ Đẳng song song “A & B”. Khi tốt nghiệp Sơ Đẳng, các người đậu cao của 2 khoá được nhập lại thành một khoá Maistrancier. Vì thế đừng ai ngạc nhiên, khi tôi học khoá8 Sơ Đẳng, nhưng lại học khoá 7 Maistrancier.
     *Như tôi đã nói rõ, sau khi ra trường Maistrancier, mang cấp bậc HS1chuyên nghiệp (1chữ V xanh đậm, có 2 vạch chỉ xanh lợt – tựa như chuẩn úy, khác với HS1từ lính lên, mang 3 chữ V xanh đậm, không có 2 sợi chỉ xanh), phải đi thực tập trên tàu 18 tháng mới được lên Trung sĩ (điều nầy đòi hỏi phải được đơn vị trưởng phê điểm tốt, không thì mang lon HS1 dài dài vài năm là thường! Như tôi vì gián đoạn đi tàu biển, được đổi lên bờ, nên “thiếu” điểm phục vụ trên tàu (“hải vụ”) phải mất 3 năm sau mới lên Trung sĩ. Những anh em cùng khoá với tôi, đi tàu có điểm “hải vụ” cao, cuối cùng lên Đại úy, tệ lắm cũng Trung úy.
     *Cũng cần nói rõ thêm, tuy ngành của tôi là Trọng pháo, nhưng vì nhu cầu công vụ đặc biệt (biên tập tờ Lướt Sóng) tôi được đưa lên phục vụ ở bờ, cấp chỉ huy cũng cử tôi đi học vài khoá như Tình báo Cây Mai, CTCT để hợp thức hoá việc làm trên bờ, coi như chuyển ngành qua CTCT vì nhu cầu công vụ. Chẳng có gì lạ cả.
     *Về Quân Vận hạm HQ-537. Tàu HQ-537 nguyên là loại LCU chuyên chạy đường sông, anh em Hải quân gọi là “con rùa” vì chạy chậm như rùa bò. Hải quân VNCH có 5 chiếc LCU mang số HQ-533, HQ-534, HQ-535, HQ-536 và HQ-537. Thế mà vẹm Khôi dám bố láo bảo rằng không có HQ-537 !?
     Phải chăng tài liệu mà vẹm Khôi đưa lên là do hải quân VC cung cấp? Bởi vì có thể sau nầy mấy chiếc LCU quá cũ nên HQ/VNCH đã phế thải rồi, y như số phận của 2 chiếc Trợ Chiến Hạm Nỏ Thần (HQ-225) vàLinh Kiếm (HQ-226)?
    Về thời gian ở quân trường Nhatrang, tôi đã nói rõ từ tháng 8/54 đến tháng 2/55 tôi học 2 khoá sơ đẳng và trung đẳng CN trọng pháo. Vẹm Khôi đã lập lại ĐÚNG ở phần trên (chúng tôi in chữ xanh), nhưng phần dưới y lại cố ý nói tầm bậy để có cớ xuyên tạc ! Đúng là miệng lưỡi của con nhà Vẹm !
 
    Điều tôi muốn nhắc lại ở đây là, các người nạp đơn vào Hải Quân lúc đó rất khó. Tiêu chuẩn số 1 là vấn đềan ninh: “lý lịch rõ ràng”; nhưng như đã nói, ông Võ Văn Sáu là một thanh niên người Cam Bốt, chưa nhập tịch, không có thân nhân bảo lãnh...không có trình độ Trung học Việt Nam, thì làm sao ông Sáu có thể
được phép vào Hải Quân và học ngay Hạ Sỹ Quan?
    Giai đoạn từ sau 1968 thì Hải Quân có tuyển mộ kiểu Sĩ Quan Đoàn Viên, nhưng tất cả từ Trung Sĩ đến Thượng sỹ nhất đều phải có bằng Trung Học Đệ Nhất Cấp và Cao Đẵng chuyên nghiệp. Vậy, đã không học tại Việt Nam, thì sao ông có thể trở thành Sĩ Quan Đoàn Viên được ? Nói đến quân đội thì phải nói đến quân hàm, nhưng chưa nghe ông nói rõ từng lúc ông được mang “lông lá” gì cả cho rõ ràng. Ông Võ Văn Sáu thử nói lại xem sao nào ?
       BQK-16-8-14

Cái NGU thứ 5 :
     *Tôi đã nói rõ tôi gia nhập Hải quân tháng 8/1954, vàtheo học 2 khoá Sơ Đẳng và Trung Đẳng tới tháng 2/1955. Nghĩa là khoảng 6 tháng. Vẹm Khôi phịa ra là BA NĂM RƯỠI ! Nói láo thật trắng trợn, sao thiên lôi hà bá nào không CẮT CÁI LƯỠI VẸM của hắn cho rồi!
     *Thời Pháp thuộc, nhiều Sĩ Quan bộ binh không cần bằng cấp Trung Học, chỉ cần có chứng chỉ từ lớp 2ème hoặc 3ème année chương trình Pháp, nói tiếng Pháp trôi chẩy là được – đôi khi chỉ cần qua một kỳ thi sát hạch năng lực. Vào Hải Quân cũng dễ dãi một chút. Các Sĩ Quan Hàng Hải Thương Thuyền chuyển qua Hải quân cũng không đòi hỏi có tú tài toàn phần toán. Chỉ sau khi Pháp bàn giao cho VN, các điều kiện mới khắt khe… mới được áp dụng.
     *Cũng vậy, như đã nói, Khoá Maistrancier thời Pháp không cần đòi hỏi có bằng Trung học ĐNC. Anh nào đậu cao theo tiêu chuẩn thì học Maistracier. Về sau nầy vì nhu cầu đôn quân, HQVN mới mở khoá đào tạo thẳng ra HSQ, và điều kiện phải có bằng Trung học ĐNC.
     *Trong tất cả mọi Quân Binh Chủng, dàn Hạ Sĩ Quan chỉ leo lên tới cấp bậc CHUẨN UÝ là đụng nóc nhà. Muốn thăng cấp THIẾU UÝ, cần phải được đơn vị trưởng phê điểm tốt, và đề cử đi học một khoá CĂN BẢN SĨ QUAN (để lấy bằng B1). Khoá B1 (Căn bản SQ) có rất nhiều ngành : Tổng Quản Trị, Tiếp Vận, Tiếp liệu, Truyền Tin, An Ninh, Tình báo, CTCT,  v.v… Ở Hải Quân, nếu đã đeo lon “Chuẩn Uý” thâm niên hơn 1 năm, khi vừa lấy xong B1, liền được thăng ngay cấp Thiếu Uý. Đâu có đòi hỏi bằng TH/ĐNC đâu ? Bằng B1 được xếp tương đương với bằng Trung học ĐNC. TVVS lên chức Thiếu Úy là như vậy đó, biết chưa chú vẹm Khôi? Chú còn NGU như VẸM !
     Võ Văn Sáu – Góp Gió
             17/8/2014

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Lưu ý: Chỉ thành viên của blog này mới được đăng nhận xét.